Chuyển tới nội dung chính

Tin thời sự nổi bật

NGHIÊN CỨU BRACE CORONA

NGHIÊN CỨU BRACE CORONA

Angiotensin Receptor Blockers and Angiotensin-converting Enzyme Inhibitors and Adverse Outcomes in Patients with COVID-19
 

ThS. BS. Nguyễn Ngọc Thanh Vân

PGS. TS. BS. Châu Ngọc Hoa

Bộ môn Nội - Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

 
Năm 2020 đánh dấu sự thay đổi lớn trong lịch sử nhân loại với sự bùng nổ của COVID-19. Cho đến nay, đã có gần 29 triệu ca nhiễm và >900 000 trường hợp tử vong trên toàn cầu. Một số giả thuyết về cơ chế bệnh sinh đã đặt vấn đề về việc sử dụng thuốc ức chế men chuyển và chẹn thụ thể AT1 trên bệnh nhân COVID-19.
Đồng thuận của Hội Suy tim Hoa Kỳ, Hội Tim mạch Hoa Kỳ và Hội Tim mạch Châu Âu đều khuyến cáo sử dụng thuốc ức chế hệ Renin trên bệnh nhân tăng huyết áp, suy tim, bệnh mạch vành. Nếu mắc COVID-19, việc tiếp tục hay ngưng sử dụng thuốc được cá thể hoá tuỳ theo tình trạng huyết động và biểu hiện lâm sàng. Tuy nhiên, các đồng thuận này đều dựa vào ý kiến chuyên gia.
Các nghiên cứu quan sát tại cộng đồng và bệnh viện không cung cấp các chứng cứ mạnh và rõ ràng về tác động có lợi hoặc có hại của việc sử dụng thuốc ức chế Renin.
Chưa có nghiên cứu phân bố ngẫu nhiên so sánh nhóm có và không sử dụng thuốc ức chế men chuyển/chẹn thụ thể AT1 trên bệnh nhân COVID-19.
 
Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu pha IV trên 29 trung tâm tại Brazil
659 bệnh nhân, phân bố ngẫu nhiên
2 nhóm: ngưng (n=334) hoặc tiếp tục (n=325) thuốc ức chế men chuyển/chẹn thụ thể Angiotensin II trong 30 ngày
Định nghĩa:

o  Triệu chứng nhẹ: SaO2>94% và <50% thâm nhiễm tại phổi

o  Triệu chứng trung bình: SaO2<94% hoặc >50% thâm nhiễm tại phổi, và hoặc PaO2/FiO2<300

o  Triệu chứng nặng: thở máy, rối loạn huyết động hoặc suy đa cơ quan

Kết cục chính: số ngày còn sống ngoại viện ở thời điểm 30 ngày

Tiêu chuẩn chọn bệnh:
18 tuổi
Đã sử dụng ức chế men chuyển/chẹn thụ thể Angiotensin II trong thời gian dài
Nhập viện và có chẩn đoán COVID-19
 
Tiêu chuẩn loại trừ:
Nhập viện do suy tim cấp trong 12 tháng qua
Sử dụng ít nhất 3 thuốc hạ áp
Sử dụng Sacubitril/Valsartan
Thở máy, rối loạn huyết động trong vòng 24 giờ đầu đến khi xác định nhiễm COVID-19
Thai kỳ

Đặc điểm dân số:
Tuổi trung bình: 55,7; 40,4% là nữ
100% tăng huyết áp, 31,9% đái tháo đường, 52,2% béo phì
16,7% ức chế men chuyển, 83,3% chẹn thụ thể AT1, 14,6% chẹn Beta, 31,1% lợi tiểu, 18,2% chẹn kênh Canxi
Thời gian điều trị với ức chế men chuyển/chẹn thụ thể trung vị: 5,0 năm
57,1% triệu chứng nhẹ, 42,9% triệu chứng trung bình, 0% triệu chứng nặng

Kết quả:
Số ngày trung bình còn sống ngoại viện là 21,9 ngày ở nhóm ngưng thuốc và 22,9 ngày ở nhóm tiếp tục điều trị (tỷ số trung bình: 0,95, p=0,09)
Tỷ lệ bệnh nhân còn sống ngoại viện ở thời điểm 30 ngày là 91,8% ở nhóm ngưng thuốc và 95% ở nhóm còn lại.
Tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân 30 ngày tương đương ở 2 nhóm (HR= 0,97, p=0,95).

Kết luận:
Ở bệnh nhân COVID-19 nhẹ-trung bình, việc ngưng thuốc không làm cải thiện số ngày còn sống sau khi xuất viện cũng như tử vong do mọi nguyên nhân. Do đó, nên tiếp tục sử dụng thuốc trên nhóm bệnh nhân có chỉ định.
 
Thông điệp từ Giáo sư Gianfranco Parati:
Giám đốc Đơn vị Tim mạch Bệnh viện St Luca, Giáo sư Tim mạch Đại học Milano-Bicocca, Ý, Tổng Thư ký Liên đoàn THA thế giới, Nguyên Chủ tịch Nhóm huyết áp và dao động nhịp tim Hội Tăng Huyết Áp Châu Âu, Nguyên Chủ tịch Hội Tăng huyết áp Ý
Nghiên cứu BRACE CORONA cung cấp thêm y học chứng cứ về việc điều trị ức chế men chuyển/chẹn thụ thể Angiotensin II trên bệnh nhân COVID-19 nhập viện.
Nghiên cứu bao gồm bệnh nhân trẻ tuổi, triêu chứng nhẹ, thời gian ngưng thuốc ngắn, có thể không quan sát được sự khác biệt về biến cố ngắn hạn. Nghiên cứu chưa phân tích sự khác biệt giữa chẹn thụ thể và ức chế men chuyển.
Cần có các nghiên cứu phân bố ngẫu nhiên khác với thiết kế phù hợp.


  • Share